This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

#PVD Giá thuê giàn khoan tăng 12%, PV Drilling muốn đầu tư thêm giàn khoan 200 triệu USD



PV Drilling (mã cổ phiếu PVD) dự kiến sẽ đầu tư thêm giàn khoan trị giá 200 triệu USD trong bối cảnh giá thuê giàn khoan tại Đông Nam Á trong nửa đầu năm 2024 dự báo tăng 12% và sẽ neo cao trong thời gian tới.

Giá thuê giàn khoan nửa đầu năm 2024 dự kiến tăng 12%



PV Drilling hiện đang sở hữu và vận hành 06 giàn khoan dầu khí với độ tuổi khai thác trẻ nhất khu vực Đông Nam Á.

Theo báo cáo thị trường dầu mỏ toàn cầu tháng 10/2023 của Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), giá dầu thô năm 2024 được dự báo sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao, có thể đạt trên 90 USD/thùng. Điều này sẽ tiếp tục thúc đẩy hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trên toàn cầu vốn đã rất “nóng” trong giai đoạn gần đây, mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ khoan dầu khí như Tổng Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí (PV Drilling, mã cổ phiếu PVD - sàn HoSE).

Tính đến cuối tháng 09/2023, thị trường thế giới có khoảng 438 giàn khoan tự nâng, trong đó khoảng 360 giàn khoan đang có việc làm, đạt hiệu suất trên 82% - mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Dự kiến sẽ có khoảng 20 giàn khoan đóng mới được đưa ra thị trường trong thời gian tới.



Cung - cầu giàn khoan tự nâng tại khu vực Đông Nam Á trong thời gian qua. (Nguồn: IHS Markit, VCBS)

Trong khi đó, tại khu vực Đông Nam Á hiện đang có khoảng 37 giàn khoan tự nâng, trong đó có khoảng 33 giàn khoan đang có việc làm. Các tổ chức uy tín đều đánh giá nhu cầu giàn khoan tự nâng trên thế giới cũng như Đông Nam Á dự kiến sẽ có sự tăng trưởng mạnh từ nay cho đến năm 2025 do thiếu hụt giàn khoan mới sau nhiều năm giá dầu ở mức thấp và các giàn khoan hiện tại đều có việc làm.

Đối với PV Drilling, doanh nghiệp này hiện sở hữu và vận hành 04 giàn khoan tự nâng, 01 giàn khoan đất liền (landrig), và 01 giàn khoan tiếp trợ nửa nổi nửa chìm (TAD).

Nhu cầu cao đã thúc đẩy giá thuê giàn khoan trên toàn cầu cũng như tại khu vực Đông Nam Á tiếp tục duy trì xu hướng tăng giá. Hãng nghiên cứu thị trường IHS Markit, giá thuê giàn khoan tự nâng tại khu vực Đông Nam Á trong 6 tháng đầu năm nay dự báo đạt trung bình 135.000 USD/ngày, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2023.


Giá thuê giàn khoan tự nâng tại khu vực Đông Nam Á trong thời gian qua. (Nguồn: IHS Markit, VCBS)

Theo chia sẻ mới đây của đại diện PV Drilling, mảng cho thuê giàn khoan của doanh nghiệp tiếp tục khả quan, các giàn khoan vận hành xuyên suốt đến hết năm 2024, một số giàn khoan đã có công việc đến năm 2025. Trong năm 2024, dự kiến nhu cầu giàn khoan tại thị trường trong nước sẽ đến từ các dự án: 12 giếng khoan từ Đại Hùng JOC, 08 giếng khoan tại mỏ Lạc Đà Vàng (Murphy), các mỏ Cá Tầm & Kình Ngư Trắng (Vietsopetro), mỏ Sư tử trắng thuộc Cửu Long JOC, và Phú Quốc JOC.

PV Drilling dự kiến nhu cầu giàn khoan tự nâng tại thị trường Việt Nam trong năm 2024 sẽ ở mức 9 giàn, tăng thêm 1 - 2 giàn so với mức ước tính của năm nay.

Đáng chú ý, với dự báo nhu cầu giàn khoan tăng cao cho đến năm 2025, đại diện PV Drilling cho biết dự kiến sẽ đầu tư thêm giàn khoan theo hình thức mua một giàn khoan đang có sẵn trên thị trường với chi phí ước tính vào khoảng hơn 200 triệu USD. PV Drilling dự kiến sẽ dùng 30% vốn tự có và vay thêm 70%.

Hiệu suất sử dụng giàn khoan của PV Drilling dự kiến đạt trên 95%

Theo đánh giá mới nhất của hãng chứng khoán Vietcombank Securities (VCBS), giá thuê giàn khoan tự nâng đối với các hợp đồng ký mới của PV Drilling kỳ vọng sẽ đạt mức khoảng 100.000 USD/ngày. Giá thuê giàn khoan theo các hợp đồng đã được PV Drilling ký hết năm 2023 và 2024 đạt trung bình lần lượt 82.000 USD/ngày và trên 95.000 USD/ngày.

Trong năm 2023 và năm 2024, dự kiến hiệu suất sử dụng các giàn khoan của PV Drilling sẽ được duy trì trên 95% nhờ giá dầu thô neo cao. VCBS nhận định, giai đoạn 2023-2025 sẽ là giai đoạn các công ty dầu khí đầu tư mạnh cho lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khoan nhằm đón đầu chu kỳ tăng trưởng nhu cầu năng lượng, mở ra nguồn việc làm dồi dào cho PV Drilling trong những năm tới đây.



Dự báo giá thuê giàn khoan và hiệu suất hoạt động của các giàn khoan tại khu vực Đông Nam Á trong thời gian tới. (Nguồn: IHS Markit, VCBS)

PV Drilling hiện sở hữu giàn khoan có độ tuổi khai thác trẻ nhất so với các đối thủ trong khu vực. Cụ thể, độ tuổi khai thác trung bình của các giàn khoan PV Drilling hiện chỉ khoảng 11 năm, so với tuổi thọ trung bình các giàn khoan là 35 - 40 năm, giúp công ty này có lợi thế trong việc thực hiện các chiến dịch khoan phức tạp, yêu cầu kỹ thuật cao.

Bên cạnh mảng cho thuê giàn khoan, các chiến dịch khoan sôi động còn tạo cơ hội cho PV Drilling cung cấp dịch vụ kỹ thuật giếng khoan ổn định.



Khối lượng giao dịch và xu hướng giá cổ phiếu PVD của PV Drilling từ đầu năm 2023 đến nay. (Nguồn: TradingView)

Về dự án Lô B-Ô Môn, VCBS nhận định “siêu” dự án này sẽ kịp có quyết định đầu tư cuối cùng (FID) trong năm 2023; qua đó, mở ra nguồn việc làm đáng kể cho mảng dịch vụ khoan & kỹ thuật giếng của PV Drilling trong những năm tới.

Dự án này bao gồm một giàn xử lý trung tâm (CPP), 46 giàn đầu giếng (WHP), một giàn nhà ở, một tàu chứa condensate (FSO) và 750 giếng khai thác. Với kế hoạch phát triển hơn 700 giếng khai thác, kết quả kinh doanh của PV Drilling được kỳ vọng sẽ tăng tốc trong thời gian tới.

Đại diện PV Drilling cho biết công ty đang cân nhắc việc triển khai giàn khoan dùng cho dự án Lô B-Ô Môn.

Trên thị trường chứng khoán, kết thúc ngày 10/11, thị giá cổ phiếu PVD đạt 26.800 đồng/cổ phiếu, tăng gần 49% so với thời điểm đầu năm nay.



Cộng đồng Doanh nhân


Dữ liệu Vĩ mô Việt Nam Tháng 10/2023

 From: Dan Nong



Chỉ tiêu

Số liệu

Bình luận

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10

+4,08%

IIP tháng 10 có sự cải thiện (+6,2% so với tháng 9 và 4,1% so với cùng kỳ) trong khi PMI có tháng thứ 2 liên tiếp dưới ngưỡng trung bình. Điểm tích cực là chỉ số sử dụng lao động hay chỉ số việc làm đều cải thiện so với tháng trước, trong đó lao động cho nhóm điện tử và thực phẩm đã ghi nhận tăng trưởng dương do với cùng kì.
 Tính chung 10 tháng, IIP ngành chế biến chế tạo đã ghi nhận tăng trưởng dương (+0,5% so với cùng kỳ). Trong các ngành cấp 2, nhóm tăng trưởng cao chủ yếu hưởng lợi từ mức nền thấp vào năm ngoái như cao su (9,5%), hóa chất (+5,9%), đồ gỗ nội thất (3,9%), kim loại (+2,9%). Nhóm điện tử (-1,8%) hay dệt may (-1,3%) đã thu hẹp tốc độ giảm so với tháng trước.

Xuất khẩu tháng 10

+5,7%

Xuất khẩu (+5,7% svck) trong tháng 10 ghi nhận sự bứt phá từ nhóm doanh nghiệp trong nước (+15,6% svck) trong khi doanh nghiệp FDI (+2,4% svck) vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (88%). Tăng trưởng nhập khẩu đạt +6,0%

 svck giúp thặng dư cán cân thương mại đạt 2,73 tỷ USD trong tháng 10 (tương đương 24,59 tỷ USD từ đầu năm đến nay).
 Bên cạnh mức nền thấp của năm ngoái, động lực chính cho xuất khẩu trong tháng 10 đến từ nhóm điện tử, vi tính (+6,7% svck), máy móc thiết bị (+13,5%) hay từ nhóm thực phẩm như rau quả (+99,8%) và gạo (+19,4%).

Tăng trưởng doanh thu bán lẻ (lũy kế, loại trừ lạm phát)

+7,7%

Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ danh nghĩa tháng 10 chỉ tăng 7% svck - thấp hơn mức trung bình trong 10 tháng đầu năm (9,4%). Tăng trưởng đang giảm dần theo tháng và số liệu về tiêu dùng vẫn thấp hơn so với xu hướng tăng trưởng thông thường trước Covid-19. 
 Tính chung 10 tháng, loại trừ yếu tố giá, doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ danh nghĩa chỉ tăng 7,7%  - thấp hơn so với mức tăng cùng kỳ năm 2022 là 15,1%. 

CPI tổng thể tháng 10

+3,59%

Trong tháng 10, lạm phát tổng thể hạ nhiệt đáng kể sau 3 tháng tăng mạnh, và ghi nhận chỉ tăng 0,08% so với tháng trước và 3,59% so với cùng kỳ. 
 Đóng góp lớn nhất cho CPI tháng 10 là giá dịch vụ giáo dục (+2,5% so với tháng trước) đã bị triệt tiêu bởi mức giảm từ nhóm xăng dầu (-4,6%). Tương tự, trong nhóm lương thực, thực phẩm, giá gạo tăng manh (+1,1%) đã được hỗ trợ bởi giá thịt lợn giảm (-1,4%). 
 Lạm phát cơ bản có chiều hướng giảm (+4,4% so với cùng kì) khi yếu tố nền thấp từ lạm phát dịch vụ có thể được kiềm chế. Tuy nhiên, mức này vẫn cao hơn nhiều so với mức trung bình 1,8% - 2,0% trước đó. 

Giải ngân vốn FDI (lũy kế)

+2,4%

Tính đến cuối tháng 10, giải ngân FDI đạt 18 tỷ USD, tăng 2,4% so với cùng kỳ và là con số thực hiện cao nhất 10 tháng trong vòng 5 năm qua. Trong đó chủ yếu dòng vốn chảy vào lĩnh vực chế biến chế tạo (chiếm 82%).


 Vốn FDI đăng ký mới cũng khi nhận mức tăng trưởng tích cực (+10,5% svck). 
 Một số dự án đăng kí lớn trong tháng 10 như dự án Tổ hợp công nghệ tế bào quang điện Jinko Solar Hải Hà Việt Nam (1,5 tỷ USD), dự án Nhà máy Lite-on Quảng Ninh (690 triệu USD) và sự án sản xuất vật liệu phân hủy sinh học công nghệ cao Ecovance của Tập đoàn SK (Tập đoàn lớn thứ 2 Hàn Quốc) (500 triệu USD)


Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công (lũy kế)

56,8%

Tính đến hết tháng 10, tỷ lệ giải ngân đầu tư công đạt 56,8% kế hoạch Thủ tướng (2022: 51,3%) và tăng 33% svck. Xét theo tháng, đầu tư công tháng 10 chậm lại sau khi bật tăng mạnh vào tháng 9


Tỷ giá USD/VND từ đầu năm

+4,0%

Tỷ giá USDVND tăng 1,1% trong tháng 10 trong bối cảnh đồng USD cũng ghi nhận tăng 0,5%. Tính từ đầu năm tới nay, USDVND tăng 4,0% - so với mức 3,0% của DXY và mức 4,5% - 6,0% của các đồng tiền khác trong khu vực.
 NHNN tiếp tục phát hành tín phiếu nhằm tìm ra điểm cân bằng tối ưu giữa tỷ giá và lãi suất thị trường 2 và hạn chế tác động lên lãi suất trên thị trường 1. Trên thực tế, đây là biện pháp tương đối hiệu quả và đã thu hẹp chênh lệch lãi suất VND-USD. 
 Cung/cầu ngoại tệ không có nhiều áp lực (FDI giải ngân 10 tháng đạt 18 tỉ USD hay cán cân thương mại 10 tháng thặng dư 24 tỷ USD và biến động trên thị trường tự do cũng cho thấy nhu cầu tiền USD từ cá nhân trong nước không có sự đột biến. 

Lãi suất cho vay lũy kế

-200bps

Tính đến cuối tháng 10, tín dụng tăng 7,4% so với cuối năm 2022 (tăng nhẹ so với mức 6,9% vào cuối tháng 9). 
 Lãi suất huy động tiếp tục giảm khoảng 30 điểm cơ bản trong tháng 10 và lãi suất huy động trung bình 12 tháng đối với nhóm KHTC là 4,6% đối với nhóm NHTMCP NN và 5,5% đối với nhóm NHTMCP. 


 NHNN cho biết mức lãi suất trung bình của những khoản cho vay mới giảm khoảng 200 – 220 điểm cơ bản so với cuối năm 2022 – cao hơn mức mục tiêu giảm khoảng 150 điểm cơ bản cho năm nay từ phía NHNN. Lãi suất cho những khoản vay hiện tại có tốc độ giảm chậm hơn do độ trễ với lãi suất huy động. Đáng chú ý, mức lãi suất trung bình (tính chung khoản vay mới và cũ) của một số NHTMCPNN giảm mạnh như VCB (5,94% - giảm 175 điểm cơ bản so với cuối năm 2022) hay BIDV (6,46% - giảm 259 điểm cơ bản).


--
 

@cudansaigon