Chỉ tiêu
|
Số liệu
|
Bình luận
|
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10
|
+4,08%
|
IIP
tháng 10 có sự cải thiện (+6,2% so với tháng 9 và 4,1% so với cùng kỳ)
trong khi PMI có tháng thứ 2 liên tiếp dưới ngưỡng trung bình. Điểm tích
cực là chỉ số sử dụng lao động hay chỉ số việc làm đều cải thiện so với
tháng trước, trong đó lao động cho nhóm điện tử và thực phẩm đã ghi
nhận tăng trưởng dương do với cùng kì. Tính chung 10 tháng, IIP
ngành chế biến chế tạo đã ghi nhận tăng trưởng dương (+0,5% so với cùng
kỳ). Trong các ngành cấp 2, nhóm tăng trưởng cao chủ yếu hưởng lợi từ
mức nền thấp vào năm ngoái như cao su (9,5%), hóa chất (+5,9%), đồ gỗ
nội thất (3,9%), kim loại (+2,9%). Nhóm điện tử (-1,8%) hay dệt may
(-1,3%) đã thu hẹp tốc độ giảm so với tháng trước.
|
Xuất khẩu tháng 10
|
+5,7%
|
Xuất
khẩu (+5,7% svck) trong tháng 10 ghi nhận sự bứt phá từ nhóm doanh
nghiệp trong nước (+15,6% svck) trong khi doanh nghiệp FDI (+2,4% svck)
vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (88%).
Tăng trưởng nhập khẩu đạt +6,0% svck giúp thặng dư cán cân thương mại
đạt 2,73 tỷ USD trong tháng 10 (tương đương 24,59 tỷ USD từ đầu năm đến
nay). Bên cạnh mức nền thấp của năm ngoái, động lực chính cho xuất
khẩu trong tháng 10 đến từ nhóm điện tử, vi tính (+6,7% svck), máy móc
thiết bị (+13,5%) hay từ nhóm thực phẩm như rau quả (+99,8%) và gạo
(+19,4%).
|
Tăng trưởng doanh thu bán lẻ (lũy kế, loại trừ lạm phát)
|
+7,7%
|
Doanh
thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ danh nghĩa tháng 10 chỉ tăng 7% svck -
thấp hơn mức trung bình trong 10 tháng đầu năm (9,4%). Tăng trưởng đang
giảm dần theo tháng và số liệu về tiêu dùng vẫn thấp hơn so với xu hướng
tăng trưởng thông thường trước Covid-19. Tính chung 10 tháng, loại
trừ yếu tố giá, doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ danh nghĩa chỉ
tăng 7,7% - thấp hơn so với mức tăng cùng kỳ năm 2022 là 15,1%.
|
CPI tổng thể tháng 10
|
+3,59%
|
Trong
tháng 10, lạm phát tổng thể hạ nhiệt đáng kể sau 3 tháng tăng mạnh, và
ghi nhận chỉ tăng 0,08% so với tháng trước và 3,59% so với cùng kỳ. Đóng
góp lớn nhất cho CPI tháng 10 là giá dịch vụ giáo dục (+2,5% so với
tháng trước) đã bị triệt tiêu bởi mức giảm từ nhóm xăng dầu (-4,6%).
Tương tự, trong nhóm lương thực, thực phẩm, giá gạo tăng manh (+1,1%) đã
được hỗ trợ bởi giá thịt lợn giảm (-1,4%). Lạm phát cơ bản có
chiều hướng giảm (+4,4% so với cùng kì) khi yếu tố nền thấp từ lạm phát
dịch vụ có thể được kiềm chế. Tuy nhiên, mức này vẫn cao hơn nhiều so
với mức trung bình 1,8% - 2,0% trước đó.
|
Giải ngân vốn FDI (lũy kế)
|
+2,4%
|
Tính
đến cuối tháng 10, giải ngân FDI đạt 18 tỷ USD, tăng 2,4% so với cùng
kỳ và là con số thực hiện cao nhất 10 tháng trong vòng 5 năm qua. Trong
đó chủ yếu dòng vốn chảy vào lĩnh vực chế biến chế tạo (chiếm 82%). Vốn FDI đăng ký mới cũng khi nhận mức tăng trưởng tích cực (+10,5% svck). Một
số dự án đăng kí lớn trong tháng 10 như dự án Tổ hợp công nghệ tế bào
quang điện Jinko Solar Hải Hà Việt Nam (1,5 tỷ USD), dự án Nhà máy
Lite-on Quảng Ninh (690 triệu USD) và sự án sản xuất vật liệu phân hủy
sinh học công nghệ cao Ecovance của Tập đoàn SK (Tập đoàn lớn thứ 2 Hàn
Quốc) (500 triệu USD)
|
Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công (lũy kế)
|
56,8%
|
Tính
đến hết tháng 10, tỷ lệ giải ngân đầu tư công đạt 56,8% kế hoạch Thủ
tướng (2022: 51,3%) và tăng 33% svck. Xét theo tháng, đầu tư công tháng
10 chậm lại sau khi bật tăng mạnh vào tháng 9
|
Tỷ giá USD/VND từ đầu năm
|
+4,0%
|
Tỷ
giá USDVND tăng 1,1% trong tháng 10 trong bối cảnh đồng USD cũng ghi
nhận tăng 0,5%. Tính từ đầu năm tới nay, USDVND tăng 4,0% - so với mức
3,0% của DXY và mức 4,5% - 6,0% của các đồng tiền khác trong khu vực. NHNN
tiếp tục phát hành tín phiếu nhằm tìm ra điểm cân bằng tối ưu giữa tỷ
giá và lãi suất thị trường 2 và hạn chế tác động lên lãi suất trên thị
trường 1. Trên thực tế, đây là biện pháp tương đối hiệu quả và đã thu
hẹp chênh lệch lãi suất VND-USD. Cung/cầu ngoại tệ không có nhiều
áp lực (FDI giải ngân 10 tháng đạt 18 tỉ USD hay cán cân thương mại 10
tháng thặng dư 24 tỷ USD và biến động trên thị trường tự do cũng cho
thấy nhu cầu tiền USD từ cá nhân trong nước không có sự đột biến.
|
Lãi suất cho vay lũy kế
|
-200bps
|
Tính đến cuối tháng 10, tín dụng tăng 7,4% so với cuối năm 2022 (tăng nhẹ so với mức 6,9% vào cuối tháng 9). Lãi
suất huy động tiếp tục giảm khoảng 30 điểm cơ bản trong tháng 10 và lãi
suất huy động trung bình 12 tháng đối với nhóm KHTC là 4,6% đối với
nhóm NHTMCP NN và 5,5% đối với nhóm NHTMCP. NHNN cho biết mức lãi
suất trung bình của những khoản cho vay mới giảm khoảng 200 – 220 điểm
cơ bản so với cuối năm 2022 – cao hơn mức mục tiêu giảm khoảng 150 điểm
cơ bản cho năm nay từ phía NHNN. Lãi suất cho những khoản vay hiện tại
có tốc độ giảm chậm hơn do độ trễ với lãi suất huy động. Đáng chú ý, mức
lãi suất trung bình (tính chung khoản vay mới và cũ) của một số
NHTMCPNN giảm mạnh như VCB (5,94% - giảm 175 điểm cơ bản so với cuối năm
2022) hay BIDV (6,46% - giảm 259 điểm cơ bản).
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét